Biến thể SARS-CoV-2 Delta ở Scotland: nhân khẩu học, nguy cơ nhập viện, và hiệu quả vắc xin
Nội dung chính
Biến thể Delta ở Scotland chủ yếu được tìm thấy ở các nhóm người trẻ hơn, giàu có hơn. Nguy cơ nhập viện vì COVID-19 tăng gần gấp đôi ở những người mang biến thể Delta khi so sánh với người mang biến thể Alpha, với nguy cơ nhập viện đặc biệt gia tăng ở những người có năm bệnh lý đi kèm trở lên. Cả hai loại vắc xin Oxford – AstraZeneca và Pfizer – BioNTech COVID-19 đều có hiệu quả trong việc giảm nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 và nhập viện vì COVID-19 ở những người mang biến thể Delta, nhưng những tác dụng trên sự nhiễm bệnh này lại có hiệu quả thấp hơn khi so sánh với những người mang biến thể Alpha. So sánh với những người không tiêm vắc xin, ít nhất 14 ngày sau khi tiêm liều thứ hai, vắc xin Pfizer – BioNTech bảo vệ rất tốt: 92% (95% CI 90–93) âm tính với gen S, 79% (75–82) dương tính với gen S. Khả năng bảo vệ của vắc xin Oxford – AstraZeneca cũng đáng kể nhưng thấp hơn: 73% (KTC 95%: 66–78 đối với các trường hợp âm tính với gen S so với 60% (53–66) đối với các trường hợp dương tính với gen S
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2021, Biến thể Delta, trước đây được gọi là biến thể Ấn Độ hoặc B 1.617.2, đã trở thành chủng vượt trội của SARS-CoV-2 Ở Scotland. Biến thể Alpha (trước đây được gọi là biến thể Kent, B.1.1.7, hoặc gen S âm tính) từng là chủng vượt trội, đã nhanh chóng bị thay thế (hình 1).
Các mẫu bệnh phẩm được phân tích bằng cách sử dụng ThermoFisher’s TaqPath RT-PCR để kiểm tra sự hiện diện của ba gen mục tiêu từ SARS-CoV-2. Các mẫu âm tính với gen S có sự mất đoạn trong gen S của biến thể B.1.1.7 (biến thể Alpha) ở vị trí 69-70, với giá trị ngưỡng theo chu kỳ nhỏ hơn 30 cho ít nhất một trong các gen OR và N. Các mẫu dương tính với gen S có giá trị ngưỡng ít hơn 30 cho gen S và giá trị ngưỡng hiệu lực cho hai gen còn lại.
Trái lại, mẫu dương tính gen S yếu có giá trị ngưỡng từ 30 trở xuống cho gen S. Dữ liệu giải trình tự từ Scotland cho thấy từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 28 tháng 5 năm 2021, ngày mới đây nhất cho đến khi có được dữ liệu, 97% trường hợp dương tính với gen S được giải trình tự ở Scotland là biến thể Delta biến thể và 99% biến thể Delta dương tính gen S.
EAVE II là một nền tảng giám sát COVID-19 trên toàn Scotland được sử dụng để truy vết và dự báo dịch tễ học của COVID-19, thông tin phân tầng nguy cơ, điều tra hiệu quả và an toàn vắc xin.1–4 Nền tảng này bao gồm các bộ dữ liệu chăm sóc sức khỏe quốc gia của 5,4 triệu người (khoảng 99% dân số Scotland) được liên kết thông qua số Chỉ số Sức khỏe Cộng đồng của Scotland.
Chúng tôi đã sử dụng nền tảng EAVE II để thực hiện phân tích đoàn hệ nhằm mô tả hồ sơ nhân khẩu học của các bệnh nhân COVID-19, điều tra nguy cơ nhập viện trong giai đoạn nghiên cứu và so sánh tỷ lệ dương tính giữa các cá nhân được tiêm chủng tại thời điểm xét nghiệm dịch phết với những người chưa được chủng ngừa khi họ được xét nghiệm, điều chỉnh theo các hiệp biến nhân khẩu học và thời gian.
Dựa trên các phương pháp đã được mô tả chi tiết trước đây, chúng tôi định nghĩa lần nhập viện COVID-19 là nhập viện trong vòng 14 ngày xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2. 3,5 Những người có kết quả xét nghiệm dương tính trong vòng 2 ngày sau khi nhập viện cũng được tính vào. Những người được xét nghiệm trong thời gian nằm viện từ ngày thứ 3 trở đi bị loại ra. Các trường hợp nhiễm COVID-19 mắc phải tại bệnh viện đã được loại ra.
Phân tích của chúng tôi bao gồm khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 6 tháng 6 năm 2021, nhằm phân bố nhân khẩu học các ca bệnh. Đến ngày 1 tháng 4 năm 2021, 44,7% dân số ở Scotland đã được tiêm một liều vắc-xin COVID-19 và 7, 6% đã được tiêm hai liều. Ở những người từ 65 tuổi trở lên, tỷ lệ này lần lượt là là 91,2% và 15, 9%. Đến cuối thời gian nghiên cứu (ngày 6 tháng 6 năm 2021), 59,4% được tiêm một liều và 39, 4% được tiêm hai liều; tỷ lệ tương ứng là 91, 7% và 88,8%, ở những người từ 65 tuổi trở lên. Sự phân bố số vắc xin liều đầu tiên theo loại vắc xin được trình bày trong hình 2.
Có 19.543 ca nhiễm SARS-CoV-2 được xác định trong thời gian nghiên cứu, trong đó 377 ca nhập viện do COVID-19; 7723 (39, 5%) của những trường hợp này và 134 (35,5%) trường hợp nhập viện nằm trong số những người dương tính với gen S. Các trường hợp dương tính với gen S xảy ra ở mọi lứa tuổi, với tỷ lệ dương tính với gen S ở độ tuổi 5-9 nhiều hơn so với các trường hợp âm tính với gen S.
Có một độ dốc sự thiếu thốn nghịch đảo nhẹ với các trường hợp dương tính với gen S được thấy một cách không tương xứng trong nhóm ngũ phân vị giàu nhất về kinh tế xã hội. Hầu hết các trường hợp (70%) không có bệnh lý nền. 70% trường hợp dương tính với gen S không được tiêm bất kỳ liều vắc xin COVID-19 nào, so với 75% trường hợp âm tính với gen S.
Phân tích hồi quy Cox thời gian nhập viện cho thấy các trường hợp dương tính với gen S có liên quan đến việc gia tăng nguy cơ nhập viện vì COVID-19: tỷ số nguy cơ (harzard ratio-HR)=1,85 (KTC 95%: 1,39-2,47) khi so sánh với các trường hợp âm tính với gen S, sau khi đã điều chỉnh theo tuổi, giới tính, tình trạng thiếu thốn, xu hướng thời gian và các bệnh lý đi kèm. Một số lượng lớn hơn các bệnh đi kèm có liên quan đến COVID-19 làm gia tăng nguy cơ nhập viện vì COVID-19.
Nhìn chung, tác dụng mạnh của vắc-xin không biểu hiện rõ ràng cho đến ít nhất 28 ngày sau khi tiêm liều vắc-xin đầu tiên (tỷ số nguy cơ HR=0,32, KTC 95%: 0,22–0,46;). Trong số các trường hợp âm tính với gen S, tác dụng của việc tiêm vắc xin (ít nhất 28 ngày sau liều đầu tiên hoặc liều thứ hai) là làm giảm nguy cơ nhập viện (HR=0,28, KTC 95%: 0,18–0,43) so với việc không tiêm vắc xin . Tỷ số nguy cơ tương ứng giữa nguy cơ nhập viện các trường hợp dương tính với gen S là 0,38 (KTC 95% 0,24-0,58), với test tương tác giá trị p=0,19 (>0.05), cho thấy rằng không có bằng chứng về tác dụng khác biệt của vắc xin đối với việc nhập viện giữa những người đầu tiên có kết quả xét nghiệm dương tính.
Xét trên toàn bộ đoàn hệ dân số (thay vì chỉ xét các trường hợp bệnh viện), việc phân tích các test âm tính để ước lượng hiệu quả của vắc-xin trong việc ngăn ngừa nhiễm SARS-CoV-2 được khẳng định bởi xét nghiệm PCR cho thấy rằng, so với những người không tiêm vắc xin, ít nhất 14 ngày sau khi tiêm liều thứ hai, BNT162b2 (vắc xin Pfizer – BioNTech) bảo vệ rất tốt: 92% (95% CI 90–93) âm tính với gen S, 79% (75–82) dương tính với gen S. Khả năng bảo vệ của ChAdOx1 nCoV-19 (vắc xin Oxford – AstraZeneca) cũng đáng kể nhưng thấp hơn: 73% (KTC 95%: 66–78 đối với các trường hợp âm tính với gen S so với 60% (53–66) đối với các trường hợp dương tính với gen S (phụ lục trang 6). Những ước lượng này có được từ một mô hình logistic cộng thêm tổng quát đã được điều chỉnh theo độ tuổi, xu hướng thời gian khi lấy mẫu và số lần kiểm tra trước đó bằng cách sử dụng kĩ thuật splines khi cho vào yếu tố giới tính và tình trạng thiếu thốn. Bởi vì đã có chiều hướng sử dụng vắc xin và chiều hướng gia tăng biến thể Delta, nên việc điều chỉnh theo thời gian dựa theo chiều hướng chung có thể không giải thích đầy đủ những thay đổi này. Ngoài ra, không có xét nghiệm có ý nghĩa và chính thức nào để so sánh các vắc xin đã được sản xuất. Đối với vắc-xin Pfizer – BioNTech, những thay đổi tương tự về tác dụng của vắc-xin trong ít nhất 14 ngày sau khi tiêm liều thứ hai đã cho thấy khi giới hạn việc phân tích đối với những trường hợp có triệu chứng tại thời điểm xét nghiệm, nhưng với khoảng tin cậy rộng hơn có liên quan đến cỡ mẫu giảm đi. Đối với vắc-xin Oxford-AstraZeneca, sự thay đổi là lớn hơn bởi vì tác dụng của vắc-xin đối với các trường hợp âm tính với gen S cao hơn. Những kết quả này phù hợp với tác dụng của vắc xin dành cho biến thể Delta do Public Health England công bố.6
Tóm lại, chúng tôi thấy rằng biến thể Delta ở Scotland chủ yếu được tìm thấy ở các nhóm người trẻ hơn, giàu có hơn. Nguy cơ nhập viện vì COVID-19 tăng gần gấp đôi ở những người mang biến thể Delta khi so sánh với người mang biến thể Alpha, với nguy cơ nhập viện đặc biệt gia tăng ở những người có năm bệnh lý đi kèm liên quan trở lên. Cả hai loại vắc xin Oxford – AstraZeneca và Pfizer – BioNTech COVID-19 đều có hiệu quả trong việc giảm nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 và nhập viện vì COVID-19 ở những người mang biến thể Delta, nhưng những tác dụng trên sự nhiễm bệnh này lại có hiệu quả thấp hơn khi so sánh với những người mang biến thể Alpha. Chúng tôi không có đủ số người nhập viện để so sánh giữa các loại vắc xin này về mặt này. Vắc xin Oxford – AstraZeneca có vẻ
kém hiệu quả hơn vắc xin Pfizer – BioNTech trong việc ngăn ngừa nhiễm SARS-CoV-2 ở những người mang biến thể Delta. Xét về bản chất quan sát của những dữ liệu này, những ước lượng về hiệu quả của vắc xin cần phải được diễn giải một cách thận trọng.
Hình 1. Sự thay đổi tỷ lệ ca bệnh do biến thể Alpha và Delta theo thời gian ở Scotland
Hình 2. Sự phân bố số người được tiêm chủng một liều cho đến ngày 01/4/2021 tại Scotland theo loại vắc xin
AS, JM và CR là thành viên của Nhóm Cố vấn COVID-19 của Chính phủ Scotland. AS và CR là thành viên của Nhóm Cố vấn về các mối đe dọa do vi rút hô hấp mới nổi (NERVTAG), tiểu ban phân tầng nguy cơ. JM là thành viên của NERVTAG. CR là thành viên của Nhóm Mô hình Cúm Đại dịch. AS là thành viên của Nhóm cố vấn giảm tiểu cầu huyết khối của AstraZeneca. JM, BT và CR được Sở Y tế Công cộng Scotland tuyển dụng.
* Aziz Sheikh, Jim McMenamin, Bob Taylor, Chris Robertson, thay mặt cho Bộ Y tế Công cộng Scotland và các Cộng tác viên của EAVE II
aziz.sheikh@ed.ac.uk
Viện Usher, Đại học Edinburgh, Edinburgh EH8 9AG, Vương quốc Anh (AS); Bộ Y tế công cộng Scotland, Glasgow, Vương quốc Anh (JM, BT, CR)
1. Simpson CR, Robertson C, Vasileiou E, et al. Early Pandemic Evaluation and Enhanced Surveillance of COVID-19 (EAVE II): protocol for an observational study using linked Scottish national data. BMJ Open 2020; 10: e039097.
2. Mulholland RH, Vasileiou E, Simpson CR, et al. Cohort profile: early pandemic evaluation and enhanced surveillance of COVID-19 (EAVE II) database. Int J Epidemiol 2021; published online April 16. https://doi.org/10.1093/ije/dyab028.
3. Vasileiou E, Simpson CR, Shi T, et al. Interim findings from first-dose mass COVID-19 vaccination roll-out and COVID-19 hospital admissions in Scotland: a national prospective cohort study. Lancet 2021; 397: 1646–57.
4. Simpson CR, Shi T, Vasileiou E, et al. First dose ChAdOx1 and BNT162b2 COVID-19 vaccines and thrombocytopenic, thromboembolic and haemorrhagic events in Scotland. Nat Med 2021; published online June 9. https://doi. org/10.1038/s41591-021-01408-4.
5. Lopez Bernal J, Andrews N, Gower C, et al. Effectiveness of the Pfizer-BioNTech and Oxford-AstraZeneca vaccines on covid-19 related symptoms, hospital admissions, and mortality in older adults in England: test negative case-control study. BMJ 2021; 373: n1088.
6. Bernal JL, Andrews N, Gower C, et al. Effectiveness of COVID-19 vaccines against the B.1.617.2 variant. KHub 2021; published online May 24. https://doi.org/10.1101/2021. 05.22.21257658 (preprint).
Dịch bới CN Lê Hoàng Dạ Vy, Bs Nguyễn Quốc Chinh, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM
Nguồn: SARS-CoV-2 Delta VOC in Scotland: demographics, risk of hospital admission, and vaccine effectiveness. Published Online June 14, 2021 https://doi.org/10.1016/ S0140-6736(21)01358-1. www.thelancet.com
https://www.thelancet.com/journals/lancet/article/PIIS0140-6736(21)01358-1/fulltext-